Wednesday, March 27, 2013

Thành Lập Nha Kỹ Thuật



Vì tính cách đặc biệt về tổ chức và nhiệm vụ của Kỹ Thuật / BTTM, ngay chính những quân nhân phục vụ tại một đơn vị của Nha Kỹ Thuật / BTTM cũng không hiểu rõ về đơn vị này. Do đó, nếu có sự hiểu lầm hay một sự hiểu biết thiếu chính xác của một số đơn vị bạn cũng không phải là một điều ngạc nhiên.
Danh hiệu Nha Kỹ Thuật / BTTM chỉ là một danh hiệu " vỏ bọc " để bảo vệ những hoạt động thực sự đối với Cộng Sản cũng như đối với các đơn vị bạn khác. Nha Kỹ Thuật / BTTM chính thức là Bộ Tư Lệnh Chiến Tranh Ngoại Lệ, ngang hàng với cấp Sư đoàn Tổng Trừ bị do một cấp Thiếu Tướng làm Tư lệnh.
Nha Kỹ thuật / BTTM trải qua rất nhiều lần cải danh và thay đổi về tổ chức và nhiệm vụ, tùy theo sự biến chuyển về tình hình chính trị quốc nội cũng như tình hình quân sự trên chiến trường.
Trước khi đi sâu vào vấn đề này, kẻ viết bài này xin mạn phép trình bày sơ lược về cá nhân và sự liên hệ đối với Nha Kỹ Thuật / BTTM kể từ năm 1961 cho đến ngày chính Thức giải tán đơn vị này vào ngày 28 tháng 4 năm 1975 do khẩu lệnh của Đại tướng Tổng Tham Mưu Trưởng / QLVNCH, trước khi Đại tướng từ chức vụ Tham Mưu trưởng.
Vào đầu năm 1963, Sở Khai thác Địa Hình được biến cải thành Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, với hai đơn vị chiến đấu nòng cốt là Liên đoàn 77 và Liên đoàn 31. Đại Tá Lê Quang Tung cũng là vị Tư lệnh đầu tiên của đơn vị này. Sở Bắc vẫn tiếp tục hoạt động và duy trì sự phối hợp với cơ quan Combined Studies của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ, trong khuôn khổ tổ chức của Bộ Tư Lệnh LLDB mới thành lập. Sau cuộc chính biến và Cách mạng 1963 và Đại tá Lê quang Tung bị sát hại. Và LLĐB được chỉ huy bởi một số các vị Tướng lãnh và sau đó dời về Nha Trang. Cũng trong thời gian này, Sở Bắc cũng được cải danh là Sở Khai Thác / BTTM và tiếp tục duy trì công tác đặc biệt, tách rời khỏi Lực Lượng Đặc Biệt. Vị Chĩ huy trưởng và Giám đốc đầu tiên của đơn vị này là Đại Tá Trần văn Hổ. Ngoài việc đảm trách công tác văn phòng, liên lạc phối hợp với ban Cố Vấn Hoa Kỳ, tôi vẫn tiếp tục tổ chức các Toán với tư cách Sĩ quan Trưởng Công tác. Một thời gian sau, Đại Tá Hổ chỉ định tôi làm Chánh Văn phòng. Song song với sự cải tổ về phía Việt Nam, Bộ Tư lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam MACV thay thế cho cơ quan Cố vấn Hoa Kỳ MAAG, cũng được thành lập. MACV - SOG là viết tắt của MACV - Studies and Observations Group, nhưng chính danh là Special Operation Group, được chỉ định Cố vấn và yểm trợ cho các công tác đặc biệt.


Đại Tá Trần văn Hổ nhậm chức Giám đốc Nha Kỹ Thuật / BTTM kể từ năm 1964 cho đến tháng 8 năm 1968. Chính trong thời kỳ này rất nhiều kế hoạch và hoạt động đặc biệt nhằm vào lãnh thổ miền Bắc được thực hiện. Sau vụ tấn công của Cộng Sản vào Tết Mậu Thân và các cuộc hòa đàm giữa Hoa Kỳ và Bắc việt tại Paris, hoạt động đặc biệt lần lần bị giảm thiểu, nhất là những công tác ngay trong lãnh thổ Bắc Việt. Các công tác này được tập trung và gia tăng tại các vùng giáp tuyến và các vùng biên giới Lào Việt, Miên Việt. Đại Tá Đoàn văn Nu được Đại tướng Tổng Tham mưu Trưởng bổ nhiệm làm Giám đốc thay thế Đại Tá Trần văn Hổ vào khoảng tháng 8 năm 1968 và tiếp tục chỉ huy Nha Kỹ Thuật cho tới ngày cuối cùng của Nha.
Trong thời kỳ này, tình hình chiến sự và chính trị thay đổi, đặc biệt nhất là đường lối của Hoa kỳ đối với chiến trường Việt Nam không còn quyết tâm như trước, do đó các công tác đặc biệt không còn được hỗ trợ mạnh mẽ như trước năm 1968. Tuy vậy, Nha Kỹ thuật / BTTM vẫn tiếp tục thực hiện nhiều thành tích đáng kể. Các Toán hoạt động tuy không phải xâm nhập vào lãnh thổ Bắc Việt hoặc sâu vào biên giới Lào Miên, được trực thăng vận ngay vào các khu vực địch kiểm soát. Các cuộc hành quân này cũng không kém phần quan trọng và còn nguy hiểm hơn nhiều. Các Toán này đã gây trở ngại và làm chậm mức xâm nhập của Cộng Sản trong mưu đồ xâm lược miền NAM Việt Nam.


Trích đoạn Lịch Sữ Nha Kỹ Thuật / Trung Tá Lữ Triệu Khánh/ Chánh Văn Phòng Bộ Chỉ Huy Nha Kỹ Thuật



VI. Thành Lập MACSOG Và Nha Kỹ Thuật
Một điều đáng để ý là tuy OPLAN 34A dự trù xử dụng quân lực miền Nam, nhất là quân chủng Hải Quân, nhưng phía VNCH lại không được tham khảo ý kiến khi soạn thảo để kịp thời chuẩn bị. Mãi tới ngày 21 tháng giêng năm 1964, khi kế hoạch đã được Bộ Tham Mưu Liên Quân Hoa Kỳ đồng ý cho thi hành đợt 1, Đại Sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Logde mới thông báo với Quốc Trưởng Việt Nam Dương Văn Minh về kế hoạch OPLAN 34A cùng cho biết chính phủ Hoa Kỳ đã chấp thuận kế hoạch này và yêu cầu VIệt Nam hợp tác bằng cách cho quân đội tham gia. Ngày 24 tháng giêng, Toán Hành Quân Đặc Biệt (Special Operations Group - SOG) được chính thức thành lập do Đại Tá Clyde Russell chỉ huy, dưới quyền điều động của Phái Bộ Quân Sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV). Do đó, cơ quan đảm trách những cuộc hành quân đặc biệt này thường được gọi tắt là MACV-SOG hay MACSOG. Sau này, vào năm 1964, tên Special Operation Group được đổi là Studies and Observation Group (Toán Nghiên Cứu và Quan Sát) cho có vẻ "dân sự" hơn, nhưng tên viết tắt vẫn là MACSOG.

Nhìn chung, kế hoạch OPLAN 34A do MACSOG chịu trách nhiệm và gồm có 4 thành phần chính: thả toán bằng phi cơ, tiếp tế bằng phi cơ, hoạt động đường biển và chiến tranh tâm lý. Trong số này, toán "hàng không" có đông nhân viên nhất vì được thừa hưởng 169 nhân viên Việt Nam đa số là dân sự đang được huấn luyện tại Long Thành do CIA để lại.

Ngày 28 tháng giêng năm 1964, cuộc chỉnh lý củaTướng Nguyễn Khánh khiến kế hoạch của MACSOG bị chậm lại vì Hoa Kỳ cần phải được sự chấp thuận và hợp tác của chính phủ mới. Tướng Khánh là một người chủ trương "Bắc Tiến" nên tới ngày 12 tháng 2, Sở Kỹ Thuật (Strategic Technical Service - STS) thuộc Bộ Quốc Phòng VNCH được thành lập do Đại Tá Trần Văn Hổ chỉ huy để hoạt động song hành với MACSOG. Sở Kỹ Thuật là hậu thân của Sở Khai Thác Địa Hình (Topographic Exploitation Service) trước đây của Đại Tá Lê Quang Tung dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Về sau, Sở Kỹ Thuật được đổi tên thành Nha Kỹ Thuật (Strategic Technical Directorate - STD).


Tài liệu do Trung Tá Trần Đổ Cẩm Sở Phòng Vệ Duyên Hải Nha Kỹ Thuật

Nha Kỹ-Thuật (NKT) là cơ quan tình báo chiến lược của QLVNCH, là một đơn vị đặc trách tổ chức, hoạt động sưu tầm tin tức tình báo, phản tình báo chiến lược từ nội bộ cộng sản Bắc Việt cũng như trong hậu tuyến địch, những nơi có cơ sở, đơn vị cộng-sản trong và ngoài lãnh thổ VNCH.

Khởi đầu là Phòng 6 TTM do Trung tá Lung đảm trách. Trong thời đệ nhất Cộng Hòa là sở Liên-Lạc Phủ Tổng-Thống và Lực Lượng Ðặc Biệt do đại tá Lê quang Tung làm tư lệnh. Sau cuộc chỉnh biến 11/63 cho đến tháng 4/75 lần lượt chỉ huy bởi các tướng Nghiêm, Thiếu Tướng Đoàn văn Quảng, Chuẩn Tướng Lam-Sơn, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Trung tá Trần Đình Lan, Đại tá Trần Văn Hổ và cuối cùng là Đại tá Đoàn Văn Nu. Danh xưng được đổi từ Phòng 6, đến sở Liên Lạc Phủ TổngThống, Lực Lượng Ðặc Biệt, sở Khai thác Ðiạ hình, và cuối cùng là Nha Kỹ Thuật.
Trong thời đệ nhất Cộng Hòa, mọi hoạt động được đại tá Lê Quang Tung trực tiếp nhận chỉ thị cũng như phúc trình với Tổng Thống Ngô đình Diệm và cố vấn Ngô đình Nhu. Cũng trong thời gian này, mọi hoạt động được cố vấn và yểm trợ bởi cơ quan Trung-Ương Tình-Báo CIA Hoa Kỳ. Sau tháng 11/63 mọi hoạt động đều trực tiếp qua Đại tướng TTMT và được cố vấn, yểm trợ bởi cơ quan tình báo quân sự Hoa Kỳ SOG (Study and Observation Group). Các đơn vị, cơ sở thuộc NKT gồm: sở Công Tác, sở Liên Lạc, sở Phòng Vệ Duyên Hải, sở Tâm Lý Chiến, sở Không Yểm và trung tâm huấn luyện Quyết Thắng. Sở Công Tác đóng tại Sơn Trà, Ðà Nẵng, đoàn 11, 71, 72 đóng tại Ðà nẵng, đoàn 75 đóng trên Pleiku và đoàn 68 tại Saigon. Các toán trong đoàn công tác được huấn luyện xâm nhập bằng hàng không hay đường bộ vào lòng địch tại Bắc Việt hay ngoại biên Lào, Miên hoặc Thái Lan. Sở Liên Lạc đóng tại Saigon, chiến đoàn 1 tại Ðà Nẵng, chiến đoàn 2 trên Kontum và chiến đoàn 3 tại Ban Mê Thuột. Các toán thuộc sở Liên Lạc xâm nhập vào hậu tuyến địch từ vĩ tuyến 17 trở vào cho đến mũi Cà Mau. Sở Phòng Vệ Duyên Hải đóng tại Tiên Sa, Ðà Nẵng gồm Lực lượng Hải Tuần thuộc Hải Quân Việt Nam, xử dụng thuyền máy PCF, PT có tốc độ nhanh, hỏa lực mạnh để hoạt động phiá bắc hải phận vĩ tuyến 17. Lực lượng Biệt Hải được huấn luyện thành các toán Người Nhái để xâm nhập vào Bắc Việt bằng đường biển.

Sở Tâm Lý Chiến đóng tại số 7 đường Hồng Thập Tự, Saigon tổ chức và điều hành đài Tiếng Nói Tự Do và đài Gươm Thiêng Ái Quốc. Ngoài ra sở TLC còn có nhiệm vụ gửi cán bộ ra Bắc hoạt động trong lãnh vực tâm lý chiến. Sở Không Yểm đóng tại Saigon thuộc Không Quân Việt Nam để phối trí phi đoàn trực thăng 219, phi đoàn quan sát 110 tại Ðà Nẵng trong việc xâm nhập, liên lạc, hướng dẫn và triệt xuất các toán hoạt động trong lòng địch. Trung tâm huấn luyện Quyết Thắng tại Long Thành, Biên Hoà huấn luyện về chiến tranh ngoại lệ cho các toán, các phương pháp xâm nhập vào đãt địch, hoạt-động nơi hậu phương địch, du kích chiến, ám sát, bắt cóc, phá hoại, chiến tranh tâm lý v.v...

Vì lý do bảo mật, tuy cùng đơn vị, nhiều quân nhân NKT không được phép tiếp xúc hay tìm hiểu nhiệm vụ của một số chiến hữu khác. Các cơ quan, đơn vị NKT đồn trú trên khắp bốn vùng chiến thuật hạn chế tối đa sự liên lạc với các cơ quan quân, dân, chính điạ phương. Vì vậy ít người biết về NKT hoặc chỉ biết mà không hiểu rõ về các hoạt động của NKT. Quân nhân, dân sự được tuyển chọn về NKT đều trải qua một cuộc điều tra tỉ mỉ về quá khứ và liên hệ. Tãt cả đều thuộc thành phần tình nguyện, các chiến sĩ NKT khi nhận nhiệm vụ đều thấu hiểu rằng đó là công tác gian nan nguy hiểm, khi ra đi ít hy vọng trở về an toàn. Bao nhiêu chiến sĩ đã hy sinh trên khắp vùng rừng núi Bắc Việt, ngoại biên và trong lãnh thổ VNCH.

Những chiến công oanh liệt, những thành quả tối quan trọng, các chiến sĩ thuộc NKT chỉ được khen thưởng, tuyên dương âm thầm, kín đáo trong đơn vị. Trải qua 20 năm hoạt động, qua nhiều cấp chỉ huy, giám đóc, đường lối hoạt động của NKT cũng có phần ảnh hưởng bởi các thay đổi trong các cấp lãnh đạo và diễn biến chính trị quốc tế về Việt Nam. Nha Kỹ Thuật đã nhiều lần thay đổi về cơ cấu tổ chức và các hoạt động, tuy nhiên các chiến sĩ NKT luôn luôn vì Tổ Quốc sẵn sàng hy sinh, nêu cao tinh thần phục vụ cho Tự Do, cho Lý Tưởng.

Trung Tá Trần bá Tuấn / CHT Biệt Hải / Chỉ Huy Phó Sở Công Tác, K.B.C. số 9, 1988



In 1964 the JGS also formed the Technical Service (So Ky Thuat), a covert unit tasked with longer duration agent operations into North Vietnam. Commanded by a Lieutenant Colonel, the Technical Service comprised Group 11 (Doan 11), oriented toward agent operations in Laos and eastern North Vietnam; Group 68 (Doan 68 Thang Long), another infiltration unit; and the Coastal Security Service, a maritime commando group at Da Nang attached to the Technical service with its own contingent of PT boats for seaborne infiltration.
In late 1968 the Technical Service was expanded into the Nha Ky thuat (Strategic Technical Directorate, or STD) in a move designed to make it more like MACVSOG, the US joint services command created in 1964 which ran reconnaissance, raids and other special operations both inside and outside South Vietnam. Despite internal opposition the Liaison Service was subordinated to the STD as its major combat arm. Like SOG, the STD also had aircraft under its nominal control, including 219 Helicopter Squadron of the Vietnamese Air Force. By the late 1960s the size of the Liaison Service had increased tremendously. Task Forces 1, 2 and 3, commanded by lieutenant colonels and larger than a brigade, were directly analogous to MACVSOG's Command and Control North, Central and South. Each Task Force was broken into a Headquarters, a Security Company, a Reconnaissance Company of ten teams, and two Mobile Launch Sites with contingents of South Vietnamese Army and paramilitary forces under temporary Liaison Service control. Although the Liaison Service was a South Vietnamese unit, all of its operations were funded, planned and controlled by MACVSOG, and recon teams integrated both MACVSOG and Liaison Service personnel.
During 1970 the Liaison Service had staged numerous cross border missions into Cambodia in support of major external sweeps by the US and South Vietnamese forces against Communist sanctuaries. Early the following year the Service sent three recon teams into the 'Laotian Panhandle' two weeks before the ARVN's February Lam Son 719 incursion.

In February 1971 the STD underwent major reorganization in accordance with Vietnamization and its anticipated increase in special operations responsibilities. Headquartered in Saigon, STD command was given to Col. Doan Van Nu, an ARVN airborne officer and former military attache to Taiwan. As STD commander, and a non voting member of the South Vietnamese National Security Council, Nu took orders only from President Nguyen Van Thieu and the Chief of the Armed Forces of the Republic of Vietnam JGS.
The expanded STD consisted of a headquarters, a training center, three support services and six combat services. The training center was located at Camp Yen The in Long Thanh: Yen The, significantly, was the name of a resistance movement in northern Vietnam during the 11th century. Airborne instruction was conducted at the ARVN Airborne Division's Camp Ap Don at Tan Son Nhut. The three support services were Administration & Logistics; Operations & Intelligence; and Psychological Warfare, which ran the 'Vietnam Motherland', 'Voice of Liberty', and 'Patriotic Front of the Sacred Sword' clandestine radio stations. The combat services were the Liaison Service (Loi Ho), the Special Mission Service (Hac Long), Group 11, Group 68, The Air Support Service and the Coastal Security Service.

The Liaison Service (So lien Lac), commanded by a colonel in Saigon, was composed of experienced Loi Ho recon commandos divided among Task Force I (Da Nang), Task Force 2 (Kontum) and Task Force 3 (Ban Me thuot).

The Special Mission Service (So Cong Tac), also commanded by a colonel, was headquartered at Camp Son Tra in Da Nang. It remained in training under US auspices from February 1971 until January 1972. Unlike the shorter duration raid and recon missions performed by the Liaison Service, the SMS was tasked with longer missions into North Vietnam and Laos. It was initially composed of Groups 71, 72 and 75, with the first two headquartered at separate camps at Da Nang. Group 75 was headquartered at Plei Ku in the former LLDB B Co. barracks, with one detachment at Kom Tum to provide a strike force for operations in Cambodia and inside South Vietnam.

Group 11, an airborne infiltration unit based at Da Nang, and Group 68, headquartered in Saigon with detachments at Kom Tum, was soon integrated under SMS command. Group 68 ran airborne trained rallier and agent units, including 'Earth Angels' (NVA ralliers) and 'Pike Hill' teams (Cambodian disguised as Khmer Communists). A typical Earth Angel operation took place on 15 December 1971, when a team was inserted by US aircraft on a reconnaissance mission into Mondolkiri Province, Cambodia. Pike Hill operations were focused in the same region, including a seven man POW recovery team dropped into Ba Kev, Cambodia, on 12 February 1971. Pike Hill operations even extended into Laos, e.g. the four man Pike Hill team parachuted onto the edge of the Bolovens Plateau on 28 December 1971, where it reported on enemy logistics traffic for almost two months. Pike Hill operations peaked in November 1972 when two teams were inserted by C-130 Blackbird aircraft flying at 250 feet north of Kompong Trach, Cambodia. Information from one of these teams resulted in 48 B-52 strikes within one day.

The STD's Air Support Service consisted of 219 'King Bee' Helicopter Squadron, the 114 Observation Sqn., and C-47 transportation elements. The King Bees, originally outfitted with aging H34s, were re-equipped with UH-1 Hueys in 1972. The C-47 fleet was augmented by two C-123 transports and one C-130 Blackbird in the same year. All were based at Nha Trang.
In October 1972, the SMS was given responsibility for the tactical footage between Hue and the Lao border. In early 1973 US advisors were withdrawn. The Air Support Service soon proved unable to make up for missing US logistical support, sharply reducing the number of STD external missions. STD personnel, as well as Lien Doan Nguoi Nhai SEALS, were increasingly pulled into President Thieu's Office for special assignments. Later in the year the Liaison Service's Task Force 1, 2 and 3 were redesignated Groups 1, 2 and 3; and Camp Yen The was renamed Camp Quyet Thang ('Must Win'.)
By March 1975 the NVA had increased pressure on the Central Highlands, prompting Saigon to begin a strategic redeployment from the western half of II Corps. Although the Liaison Service's Groups 2 and 3 provided security for the withdrawing masses the redeployment soon turned into a rout. In the hasty withdrawal Group 2 had forgotten two recon teams in Cambodia; these later walked the entire distance back to the Vietnamese coast. After the fall of the Central Highlands government forces in I Corps began to panic, sparking an exodus to the south. In the confusion Group I of the Liaison Service attempted to provide security for the sealift to Saigon. Meanwhile, the SMS boarded boats on 30 March for Vung Tau
On 6 April 1975 SMS recon teams sent northeast and northwest of Phan Rang discovered elements of two North Vietnamese divisions massing on the city. An additional 100 SMS commandos were flown in as reinforcements, but were captured at the airport as the North Vietnamese overran Phan Rang. A second tak force of 40 Loi Ho commandos was infiltrated into Tay Ninh to attack an NVA command post; the force was intercepted and only two men escaped. By mid April 81 Airborne Ranger Group was put under the operational control of 18th Division and sent to Xuan Loc, where the unit was smashed. The remnants were pulled back to defend Saigon. By the final days of April the NVA had surrounded the capital. Along with other high officials, the STD commander escaped by plane on 27 April. On the next day 500 SMS commandos and STD HQ personnel commandeered a barge and escaped into international waters. The remainder of the Liaison Service fought until capitulation on 30 April.
Historian Ken Conboy

1 comment:

  1. Tien than cua NKT la So Khai Thac/BTTM (trategic Exploitation Service/JGS) duoc thanh lap tu BTL/LLDB, sau cuoc Cach Mang 1/11/63 vao dau nam 1964. BTL/LLDB duoc thanh lap vao dau 1963 tu So Khai Thac Dia Hinh/Phu Tong Thong duoi thoi De Nhat Cong Hoa (TT Ngo Dinh Diem). Trong thoi ky nay danh xung So Bac duoc xu dung de tach roi cac cong tac thuan tuy cua LLDB, (truoc khi So Khai Thac thanh hinh). Sau nay duoc doi danh xung So Ky Thuat/BTTM (1964) va Nha Ky Thuat/BTTM (1967) cho thich hop voi su lon manh cua don vi. Do do, neu lay ngay 1/4/1964 lam ngay thanh lap Nha
    cung hop ly, mac dau ngay nay la ngay thanh lap So Khai Thac/BTTM. Truoc 1964, cong tac dac biet tai BV do co quan CSD/CIA (Combined Studies Division) cua Toa Dai Su HK phoi hop hoat dong va tai tro.
    Sau khi MACV-SOG duoc thanh lap vao 1/4/64 cho den ngay SOG bai nhiem, cac cong tac cua Nha deu do co quan nay dam trach.
    Co the co su trung hop ngau nhien hay co y ve ngay 1/4/64 ve to chuc cua SOG va NKT, toi khong the xac nhan duoc.
    To chuc NKT/BTTM la mot don vi dac biet, truc thuoc truc tiep D/T TTMT (D/T Vien) khong qua BTTM.
    Cac phuc trinh len D/T deu do chinh toi truc tiep dua trinh len VP/TTMT. Sau nay, theo lenh D/T, mot ban phuc trinh duoc dua len VP/Tham Muu Truong/BTTM. Vi bao mat don vi, nen NKT khong co huy hieu rieng nhu mot don vi hanh quan khac, mac dau to chuc duoc xem la mot Dai don vi cap Su Doan Tong Tru Bi, nhu SD/ND hay SD/TQLC. Do do, NKT duoc mang huy hieu BTTM, nhu mot don vi co huu cua BTTM. Neu hieu ro nhiem vu va to chuc cua Nha thi chung ta se khong co su ngo nhan nao. Tuy vay, cac don vi ban co the khong hieu ro nen co the co su thac mac va ngo nhan nhu Hoa da neu len.

    Lu Trieu Khanh.

    ReplyDelete